Tên khác: Ngôn lá nhọn
Tên khoa học: Alyxia pisiformic Pierre ex Pitard
Tên đồng danh:
Họ Trúc đào – Apocynaceae
Bộ: Long đởm – Gentianales
Lớp: Hai lá mầm - Magnoliopsida
Ngành: Hạt kín - Magnoliophyta
Đặc điểm nhận dạng:
Cây nhỡ hơi leo; cành già có bần trắng, mủ trắng.
Lá mọc đối hay mọc vòng 3, hình bầu dục, thuôn, đầu hơi nhọn hay tù, gốc nhọn, bóng láng, mỏng, có mép quăn về phía trên.
Hoa thành xim ở nách lá, dài 1 - 5cm.
Quả hạch, có khô dạng chuỗi, dài 1cm, rộng 6mm, dạng bầu dục, hơi không cân; hạt 1, dài 8mm, rộng 5mm.
Sinh học, sinh thái:
Cây mọc tự nhiên ven rừng hay trảng cây bụi, ở rừng thường xanh núi cao, ít khi gặp ở vùng thấp.
Ra hoa và quả từ tháng 8 đến tháng 12.
Phân bố:
Ở trong nước: Quảng Bình, Đà Nẵng (Hải Vân, Bà Nà), Kon Tum (Đắk Glei, Đắk Choong), Tây Ninh và Kiên Giang (đảo Phú Quốc).
Trên thế giới: Lào và Campuchia.
Tình trạng bảo tồn:
Giá trị, công dụng:
Có cùng công dụng với cây Dây sen - Alyxia flavesens, nhưng gỗ thơm hơn. Người ta thường dùng gỗ đốt như đốt trầm trước đền thờ Phật và nơi thờ cúng tổ
tiên; gỗ này chỉ hơi thơm. Người ta cũng dùng làm thuốc xông chữa đau đầu. Nhựa của cây rất đắng làm nôn nhẹ (Theo A. Pételot).
Lá cuốn đốt xông khói chữa nhức đầu. Nhựa cây có tác dụng gây nôn.