Lớp: Hai lá mầm - Magnoliopsida
Cây gỗ cao 8 - 15 m, đường kính 40 cm, vỏ màu lục xám nâu, nhẵn, thịt vỏ màu vàng xám.
Lá đơn nguyên mọc cách, phiến dày, cứng giòn, dài 10 - 17 cm, rộng 5 - 9 cm, hình thuỗn hoặc trái xoan trứng, đầu có mũi nhọn ngắn, gốc hình nêm rộng, mặt dưới màu lục nhạt, có lông màu gỉ sắt ánh bạc. Cuống lá dài 2,5 - 4 cm, gốc hơi phình to.
Hoa lưỡng tính mọc ở nách lá. Hoa lớn màu trắng. Bao hoa 9 cánh, hình thìa đến hình mác, đầu tròn, xếp 3 vòng, nhị nhiều, chỉ nhị ngắn.
Lá noãn nhiều, hình trứng, vòi cong, phủ lông màu gỉ sắt.
Quả kép do nhiều đại hợp thành. Đại đầu có mũi nhọn, và lỗ bì màu trắng, khi chín nứt thành 2 mảnh. Mỗi đại chứ từ 1 - 5 hạt màu đỏ, vỏ ngoài chất thịt, vỏ trong cứng.
Sinh học, sinh thái:
Cây mọc tự nhiên trong rừng rậm thường xanh. Cây chịu bóng, mọc rải rác trong rừng ẩm nơi đất giầu dinh dưỡng.
Ra hoa tháng 4 - 5, có quả tháng 9 - 10.
Phân bố:
Trong nước: Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Nội (Ba Vì), Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng).
Nước ngoài: Trung Quốc (Vân Nam), Lào, Việt Nam.
Tình trạng bảo tồn:
Ở nhiều điểm cư trú như Đồng Tâm (Yên Bái), Chân Mộng (Phú Thọ), Yên Cát (Thanh Hoá) rừng đã bị tàn phá nghiêm trọng. Cây cho gỗ, bị khai thác khắp nơi.
Sách đỏ thế giới IUCN (2012) phân hạng Loài thiếu dữ liệu (DD)
Sách đỏ Việt Nam (2007) phân hạng Loài sắp nguy cấp (VU).
Giá trị, công dụng:
Vỏ, hạt sắc uống chữa sốt, đau bụng.
Gỗ tốt, có mùi thơm, ít bị mối mọt, dùng trong xây dựng nhà cửa, đóng đồ, làm hàng mỹ nghệ. Hạt dùng làm gia vị.
Biện pháp bảo vệ:
Không chặt phá những cây trưởng thành còn sót lại ở các điểm phân bố, nhất là ở Xuân Sơn, Ba Vì. Có thể tìm nguồn giống mang về trồng tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh (Vĩnh Phúc).