Tên khác: Đủng đỉnh, Móc
Tên khoa học: Caryota mitis Lour.
Tên đồng danh:
Họ Cau dừa – Arecaceae
Bộ: Cau dừa - Arecales
Lớp: Một lá mầm – Liliopsida
Ngành: Hạt kín - Magnoliophyta
Đặc điểm nhận dạng:
Cây mọc thành bụi nhỏ, cao 2 - 10m, thân có nhiều sợi do bẹ lá để lại làm thành.
Lá dài 1,5 - 3m, kép lông chim hai lần, cuống chung to lớn, khía rãnh, lá chét mọc so le, dai, dài 15 - 20cm, mép trên có răng không đều, mép dưới men theo cuống.
Cụm hoa dày đặc có 4 - 6 mo, càng lên đỉnh càng lớn. Bông mo dài 30 - 40cm, phân nhánh nhiều, mang hoa dày đặc, mỗi hoa cái kèm theo 2 hoa đực trên một đốt. Hoa đực có lá đài xếp lợp, hình bầu dục rộng, dày; tràng thuôn, tù, xếp van, dai; nhị 17 - 22, hình dải, đầu nhọn, trung đới màu nâu.
Hoa cái hình chóp ngắn, gần hình cầu, có 2 lá bắc xếp lợp ở gốc giống như 3 lá đài; tràng 3, xếp van; bầu hình bầu dục ngược có 3 cạnh.
Quả hình cầu, đường kính 1,4 - 1,5cm, nhẵn, đen, gốc có lá đài tồn tại, 1 hạt, hình bầu dục.
Sinh học, sinh thái:
Cây mọc nhiều ở chân núi đá vôi, thung lũng ẩm, ven các đường rừng, dưới tán cây gỗ thưa.
Có hoa vào tháng 3 - 4 và có quả tháng 11 - 12.
Phân bố:
Trong nước: Cây mọc khắp nơi, phân bố từ Bắc vào Nam, Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng.
Trên thế giới: Loài phân bố ở Nam Trung Quốc và các nước nhiệt đới châu Á.
Tình trạng bảo tồn:
Sách đỏ Thế giới IUCN (2018) phân hạng Loài ít quan tâm (LC)
Giá trị, công dụng:
Chồi ngọn có thể dùng làm rau ăn. Thân có một ít ăn được.
Lá dùng làm áo tơi, nón, cổng chào.
Khối sợi mềm ở nách các lá tạo thành một loại bùi nhùi được sử dụng làm lành một số vết thương bằng cách đắp bên ngoài.
Biện pháp bảo vệ: