BÙNG BỤC
Tên khác: Bông bệt; Bùm bụp gai; Nhung diện râu; ruối râu; cám lợn; Mạy muốc (Tày).
Tên khoa học: Mallotus barbatus Muell.-Arg.
Tên đồng danh:
Họ: Thầu dầu - Euphorbiaceae
Bộ: Sơ ri - Malbighiales
Lớp: Hai lá mầm - Magnoliopsida
Ngành: Hạt kín - Magnoliophyta
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ cao 1 - 10m. Cành non phủ nhiều lông màu trắng hay vàng nhạt.
Lá đơn, mọc cách, hình bầu dục rộng có mũi nhọn, phiến nguyên hay có 3 thùy nhọn, dài 16 - 25cm, rộng 11 - 12cm, lúc đầu phủ lông tơ trên 2 mặt, sau nhẵn ở mặt trên, phủ nhiều lông tơ mềm và màu nhạt ở mặt dưới, gân gốc 7 - 9, dạng chân vịt, gân bên 4 - 5 đôi, cuống lá phủ nhiều lông tơ.
Cụm hoa đực, cái hay lưỡng tính dài tới 20cm, dạng bông phủ lông tơ.
Hoa đực thành nhóm 5 - 8, cuống dài 4mm; cánh đài 5 hình lưỡi mác, mặt ngoài phủ lông tơ, mặt trong có tuyến; nhị 50 hay hơn, chỉ nhị đỏ nhạt, có tuyến nhỏ.
Hoa cái ít khi thành nhóm, cuống phủ nhiều lông tơ, lá bắc nhọn. Cánh đài lúc đầu có 2 thùy sau xẻ thành 4 thùy, mặt ngoài phủ nhiều lông tơ, mặt trong nhẵn.
Bầu hình cầu, lông tơ rậm, hình trụ; quả nang hình cầu, đường kính 13 - 15mm, phủ nhiều lông tơ, 3 - 4 mảnh. Hạt hình cầu, có 3 cạnh, màu đen bóng.
Sinh học, sinh thái:
Cây mọc tự nhiên trong rừng thường xanh hay trảng cây bụi, ở độ cao 100-1100 m. Cây rất ưa ánh sáng, sinh trưởng nhanh và có khả năng thích nghi trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng phát triển tốt nhất trên đất có tầng dày, giữ ẩm và thoát nước tốt. Cây có khả năng tái sinh tự nhiên bằng hạt rất hiệu quả.
Mùa hoa của cây kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8, trong khi mùa quả chín rơi vào tháng 10 đến tháng 12, là khoảng thời gian cây sinh sản và phân tán hạt.
Phân bố:
Trong nước: Cây phân bố rộng khắp ở Việt Nam, xuất hiện phổ biến ở hầu hết các vùng, từ đồng bằng đến miền núi. Từ Sơn La, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Ninh Bình tới Tây Nguyên, Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng)
Trên thế giới: khu vực châu Á như Ấn Độ, Myanmar (Miến Điện), Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines.
Tình trạng bảo tồn:
Sách đỏ thế giới IUCN (2018) phân hạng loài ít quan tâm (LC)
Giá trị, công dụng: Rễ cây có vị hơi đắng, chát, tính bình; tác dụng chủ yếu là thanh nhiệt, lợi tiểu, giảm đau và có khả năng cầm tiêu chảy (chỉ tả).
Lá cây có vị đắng, tính hàn; giúp lương huyết, tức làm mát và điều hòa máu, đồng thời có tác dụng cầm máu (chỉ huyết).
Quả chữa sâu răng, viêm loét dạ dày, viêm hành tá tràng.
Ngoài ra, lá cây cũng được dùng để điều trị các bệnh ngoài da như ghẻ ngứa và các vết thương chảy máu bên ngoài.
Người dân còn sử dụng vỏ cây bằng cách sắc lấy nước uống để chữa mụn nhọt, giảm buồn nôn và hỗ trợ điều trị các bệnh viêm hành tá tràng và dạ dày. Nước sắc từ lá cũng được dùng để trị phù thũng - tình trạng tích nước trong cơ thể gây sưng phù.
Bột lấy từ lớp vỏ ngoài của hạt và các lông bao quanh hạt được ứng dụng để trị các bệnh ký sinh trùng đường ruột như sán xơ mít và giun.
Ở Malaysia, lá bùm bụp gai được phối hợp với hạt tiêu, Gừng và gạo giã nhỏ, làm thuốc đắp ngoài để chữa đau bụng, mang lại hiệu quả giảm đau rõ rệt cho người bệnh.
Biện pháp bảo vệ: