Tên khoa học: Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte, 1914
Tên đồng danh: Aquilaria agallocha auct., non Roxb., (1824)
Họ: Trầm - Thymelaeaceae
Bộ: Cẩm quỳ - Malvales
Lớp: Hai lá mầm - Magnoliopsida
Ngành: Hạt kín - Magnoliophyta
Cây gỗ lớn, thường xanh, cao đến 15 - 20 m, có khi tới 30 m, đường kính 40 - 50 cm hay hơn. Vỏ màu nâu xám, nứt dọc, dễ bóc.
Cành có lông, có màu nâu sẫm với các lỗ khí trên phần già. Chồi ngọn có lông màu vàng nhạt. Tán lá thưa.
Lá hình trứng thuôn, bầu dục hay hình giáo dài, cỡ 8 - 9 cm x 3,5 - 5,5 cm, mặt trên màu xanh bóng, mặt dưới màu nhạt hơn và có lông mịn, chóp lá có mũi nhọn, gốc lá nhọn hoặc tù, mép nguyên, gần dai; gân bên 15 - 18 đôi mảnh, không đều, tận cùng thành mép dày và hơi cuộn lại; gân cấp 3 rất mảnh, rõ; cuống lá dài 4 - 5 mm, có lông nhẹ.
Hoa nhỏ, mọc thành cụm hình tán ở nách lá gần đầu cành non, màu vàng nhạt; cuống hoa dài 0,6 - 1 cm, có lông mỏng. Đài hình chuông, nông, 5 thùy, có lông.
Phần phụ cánh hoa dạng trứng, dài 1 mm, có lông rậm, và đính ở họng đế hoa. Cánh hoa 10. Nhị 10, xếp trên hai vòng; ô phấn thuôn, dài 1 mm, nhẵn; chỉ nhị dài 1 mm, nhẵn. Bầu hình trứng, có lông, cao 2,5 - 4,5 mm, 2 ô, mỗi ô 1 noãn treo; vòi nhụy ngắn 0,7 - 1 mm, có lông; núm hình đầu, màu đen nhạt, gốc bầu có tuyến mật.
Quả nang hình trứng ngược, dài 4 cm, rộng 3 cm, khi khô nứt làm hai mảnh, cứng, có lông mềm màu vàng xám, mang đài tồn tại. Cuống quả dài 1 cm. Hạt 1.
Khả năng tái sinh tốt nơi sáng, nhưng cây mạ ít gặp dưới tán rừng rậm, thường chỉ gặp nơi có ánh sáng trong rừng hoặc ven rừng.
Cây thường mọc rải rác trong rừng kín thường xanh, ở độ cao 300 - 1000 m. trên sườn dốc và thoát nước. Ưa đất feralit điển hình hay feralit núi phát triển trên đá kết, đá phiến, hoặc đá granit, tầng đất trung bình hoặc mỏng, hơi ẩm, độ pH biến động từ 4 - 6.
Ra hoa tháng 2 - 4, quả chín tháng 5 - 7.
Trong nước: Hà Giang, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng, Khánh Hoà, Bình Thuận và tận Kiên Giang (đảo Phú Quốc), tập trung nhiều từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận.
Nước ngoài: Thái Lan, Lào, Campuchia.
Vỏ cây có sợi thường dùng buộc, làm nguyên liệu giấy, làm dây.
Gỗ nhẹ, có mùi thơm, không bền vì mối mọt, ít được dùng làm đồ gia dụng, nhưng đặc biệt khi cây gỗ bị nhiễm nấm Cryptosphaerica mangifera sẽ tạo thành Trầm, có mùi thơm đặc biệt. "Trầm" hay còn gọi là "Trầm hương", "Kỳ Nam" là một sản vật quý, dùng làm hương liệu hay chưng cất tinh dầu. "Trầm hương" còn được dùng làm thuốc an thần, chữa trị một số bệnh như ngộ gió, đau bụng, ỉa chảy, đau dạ dày, nôn mửa, hen suyễn, lao, trị rắn cắn.
Do có giá trị kinh tế cao nên cây Trầm hương đã bị chặt phá hết sức bừa bãi để tìm kiếm "Trầm". Mặc dù cây có vùng phân bố tương đối rộng, nhưng với mức độ khai thác ồ ạt, thêm vào đó là nạn phá rừng đã làm cho nguồn Trầm hương ở Việt Nam giảm sút rõ rệt. Hiện nay hầu như không tìm thấy những cây lớn trong tự nhiên. Đã trồng được khoảng 10.000 ha.
Sách đỏ Việt Nam 2007 phân hạng loài nguy cấp: EN A1 c,d, B1+ 2b,c,e Sách đỏ thế giới IUCN (2017) phân hạng: Loài cực kỳ nguy cấp CR
Một phần sinh cảnh của loài nằm trong các khu bảo tồn nên được bảo vệ.. Bảo vệ quần thể và sinh cảnh của loài trong tự nhiên. Có thể trồng nhân tạo để bảo tồn và tạo nguồn sản phẩm cung ứng cho thị trường, giảm áp lực khai thác từ tự nhiên. Cần đi sâu nghiên cứu cụ thể hơn nữa quá trình tạo thành "Trầm".