Tên khoa học: Calocedrus rupestris Aver., H.T. Nguyen & L.K. Phan
Họ: Hoàng đàn – Cupressaceae
Bộ: Tùng Bách – Pinales
Lớp: Thông - Pinosida
Ngành Hạt trần - Pinophyta
Đặc điểm nhận dạng:
Bách xanh đá cao tới 25 m, đường kính tới 1 m, thường xanh, đơn tính cùng gốc, tán tròn rộng.
Vỏ có nhiều ống dẫn nhựa lớn. Gỗ vàng nhạt, có mùi thơm tinh dầu. Các cành nhỏ xếp trên một mặt phẳng, dàn trải và lớn dần, dẹt, nối rõ với nhau.
Chóp lá tù hoặc tù rộng, nón hạt hình trứng rộng có 4 vảy, kích thước 4–5 (‐6) x 2,5–3 (‐3,5) mm với cuống nón rất ngắn, dài 0,5–1 (‐1,5) mm, có 6–8 (‐12) vảy tù; các vảy nón có hạt có chóp gần tròn, lõm vào trong, bề mặt nhám, tương đối phẳng và không có núm lồi.
Sinh học, sinh thái:
Loài mọc thành rừng thuần loại trên một số đường đỉnh núi đá vôi của các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, các tiểu quần thể mọc rải rác, cách ly nhau (Nguyễn Tiến Hiệp & cs. 2004).
Bách xanh đá gặp trong thành phần cây ưu thế ở rừng nguyên sinh rậm nhiệt đới gió mùa Thông ở núi thấp, trên dông núi đá vôi kết tinh thể cứng bị bào mòn mạnh ở độ cao 650–700 m trên mặt biển (nhiệt độ trung bình năm khoảng 200C, lượng mưa trên 1500 mm). Gặp rất ít cây con Bách xanh đá tái sinh.
Tại Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng quần thể Bách xanh đá mọc tập trung trong rừng nguyên sinh hỗn giao cây lá rộng và lá kim trên sườn và đỉnh núi đá vôi ở độ cao từ 572 m đến 820 m, diện tích khu phân bố khoảng 3.018 ha.
Hạt chín được phóng thích từ nón hạt vào tháng 7-8. Ít gặp cây tái sinh tự nhiên các tuổi khác nhau từ hạt.
Một số nghiên cứu khác về quần thể Bách xanh đá tại Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng cho thấy mùa hoa (nón) xuất hiện tháng 4-8; nón chín vào tháng 8-9 Nón đực màu lục tươi, khi chín chuyển sang màu nâu hồng. Nón cái có màu xanh nhạt, khi chín chuyển từ màu cánh dán sang màu nâu thẩm, quả nứt dọc thành 3 mảnh vỏ, tạo thành 2 khe, mỗi khe chứa 2 hạt; mỗi quả (nón cái) chứa 4 hạt bên trong. Hạt khi còn non có màu xanh, khi chín chuyển sang màu cánh dán.
Phân bố:
Trong nước: Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Hoà Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Sơn La, Tuyên Quang.
Nước ngoài: Assam, Bangladesh, Borneo, Campuchia, Malaya, Myanmar, Nepal, Philippines, Sulawesi, Sumatera, Thái Lan
Mối đe doạ:
Sinh cảnh sống bị thu hẹp, chia cắt và suy thoái do khai thác lâm sản và cháy rừng. Loài này bị khai thác quá mức lấy gỗ và nhựa.
Các tiểu quần thể nhỏ, có không quá 100 cây trưởng thành. Trong tháng 5 và 6 nón hạt bị côn trùng tấn công (Nguyễn Tiến Hiệp & cs. 2004).
Tình trạng bảo tồn:
Bách xanh núi đá phân bố ở các vùng núi đá vôi từ Hà Giang, Sơn La vào đến Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng). Sinh cảnh sống bị thu hẹp và suy thoái do tác động do khai thác lâm sản và cháy rừng. Các tiểu quần thể mọc rải rác, cách ly nhau. Loài này bị khai thác lấy gỗ và nhựa.
Sách đỏ thế giới IUCN phân hạng Loài nguy cấp EN (2012) Nghị định 84/2021/NĐ-CP: Nhóm IIA
Danh lục đỏ Việt Nam: EN C2a(i)
Giá trị, công dụng:
Loài cho gỗ quý có vân đẹp, thớ thẳng, có mùi thơm, chịu mối mọt và dễ gia công, được sử dụng trong xây dựng, làm đồ gỗ và đồ mỹ nghệ cũng như làm hương (Nguyễn Tiến Hiệp & cs. 2004).
Biện pháp bảo tồn:
Loài này có tên trong Phụ lục II CITES và Nhóm IIA, Nghị định số 84/2021/NĐ-CP của Chính phủ. Vùng phân bố của loài có một phần nằm trong các khu bảo tồn nên được bảo vệ.
Cần bảo vệ sinh cảnh sống của loài. Kiểm soát việc khai thác trái phép, phục hồi quần thể của loài trong tự nhiên.