Tên khác: Phỉ ba mũi (tiếng Việt)
Tên tiếng Anh: Plum Yew (tiếng Anh)
Tên khoa học: Cephalotaxus mannii Hook. f.
Tên đồng nghĩa: Cephalotaxus hainanensis H.L. Li; Cephalotaxus griffithii Hook.f.
Trong một số tài liệu loài này được gọi với tên C. oliveri Mast. Các tài liệu còn có ghi cả các loài C. fortunei và C. drupacea ở Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có một loài thuộc chi nhỏ này ở Việt Nam là C. mannii.
Họ Đỉnh tùng – Cephalotaxaceae
Bộ: Tùng Bách – Pinales
Lớp: Thông - Pinosida
Ngành Hạt trần - Pinophyta
Cây gỗ nhỡ thường xanh, ít khi cao 10-15 m, cành mảnh mọc đối và xòe ngang. Lá mọc xoắn ốc, xếp thành hai dãy, hình dải, dài 2-4 cm, rộng 0,2-0,4 cm, thẳng hay hơi cong ở gần đầu và thót nhanh có mũi nhọn ở đầu, men, cụt hay hơi tròn ở gốc, mặt dưới có hai dải lỗ khí màu trắng.
Nón đực hình đầu mang từ 8-10 hoa đính trên cuống ngắn có vảy, mọc ở nách lá; mỗi hoa có lá hoa ở gốc mang 7-10 nhị, mỗi nhị có 3 túi phấn.
Nón cái đơn độc hay mọc chùm 3-5 cái ở nách lá; mỗi nón gồm 9-10 vảy, ở mặt bụng có 2 noãn.
Hạt hình trứng, dài khoảng 2,7 cm, đường kính khoảng 1,8 cm, tròn và có mũi nhọn ở đỉnh, vỏ hạt vàng hoặc xanh, khi chín mọng nước.
Sinh học, sinh thái:
Cây gặp rải rác thành từng đám nhỏ ở độ cao 500‐2000 m trên mặt biển, trong các rừng nguyên sinh rậm thường xanh cây lá rộng nhiệt đới gió mùa núi thấp trên cả núi đá vôi. Thường mọc cùng với các loài Thông khác như: Kim giao núi đất (Nageia wallichiana), Thông đỏ nam (Taxus wallichiana), Thông tre lá dài (Podocarpus neriifolius) và Thông nàng (Dacrycarpus imbricatus) trên các vùng núi đá silicát chủ yếu ở miền Trung và Nam Việt Nam.
Ở Bắc Việt Nam cây mọc chung với các loài: Thiết sam giả (Pseudotsuga sinensis), Thông Pà Cò (Pinus kwangtungensis), Kim giao núi đá (Nageia fleuryi), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông đỏ bắc (Taxus chinensis) và các loài Dẻ tùng (Amentotaxus spp.) trên núi đá vôi.
Mùa ra nón tháng 4-5, hạt chín vào tháng 9-10 năm sau. Tái sinh bằng hạt diễn ra bình thường.
Tại VQG Phong Nha – Kẻ Bàng, ghi nhận loài ra hoa vào tháng 3-4, trái từ tháng 10-11 (thụ phấn tháng 4, hạt già tháng 10)
Ở Việt Nam Đỉnh tùng được biết chắc chắn có ở Lào Cai, Hà Giang, Sơn La, Cao Bằng, Hoà Bình, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng. Những thông tin có gặp ở Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi (Trà Bồng).
Trên thế giới loài này phân bố từ Đông Bắc Ấn Độ, Lào, Bắc Myanma, Bắc Thái Lan tới Nam Trung Quốc.
Đỉnh tùng đã bị khai thác lấy gỗ và làm thuốc trên toàn bộ vùng phân bố trên thế giới. Thu hái vỏ cây sẽ làm cây chết, và do đó cách thu hoạch này là không bền vững.
Ở Việt Nam loài bị đe doạ chủ yếu là do rừng bị phân cách và việc chuyển đổi nơi sống thành đất nông nghiệp ở các vùng đất thấp, núi thấp và một số rừng núi trung bình không đá vôi. Ở những nơi mà loài này mọc trong khu vực giữa đất nông nghiệp và rừng trên núi thì các khu rừng này có khả năng bị suy thoái. Đối với Đỉnh tùng việc xây dựng các khu bảo tồn có diện tích rừng lớn chưa bị tác động và được quản lý đúng cách có thể là giải pháp bảo tồn lâu dài duy nhất.
Ở mức quốc tế Đỉnh tùng được đánh giá là Sắp bị tuyệt chủng (A1d) do diện tích rừng bị suy giảm trên toàn vùng phân bố. Hiện trạng quốc tế này chưa được đánh giá lại theo các chỉ tiêu mới của IUCN 2001.
Ở Việt Nam loài này được coi là loài Hiếm (Anon., 1996). NCG đánh giá hiện trạng loài này là Sắp bị tuyệt chủng dựa trên mức suy thoái các quần thể do quá trình chuyển đổi các nơi sống nguyên sinh của loài thành đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ, các quần thể bị chia cắt mạnh và có sự suy giảm liên tục cả về diện tích, vùng phân bố và chất lượng các nơi sống.
Sách đỏ Việt Nam 2007: phân hạng loài Sắp nguy cấp VU A1,c,d, B1+2b,c.
Sách đỏ thế giới IUCN (2010) phân hạng Loài sắp nguy cấp VU.
Nghị định 84/2021/NĐ-CP: Nhóm IIA.
Nguồn gen quý. Gỗ bền và tốt, dùng trong xây dựng và nhất là để đóng đồ gỗ cao cấp. Tri thức bản địa của cộng đồng sinh sống xung quanh VQG Phong Nha – Kẻ Bàng: người dân chủ yếu sử dụng để đóng bàn ghế, tủ, giường. Gỗ Đỉnh tùng có chất lượng cao, chịu mối mọt, được sử dụng làm đỗ gỗ cao cấp, đồ mỹ nghệ và cán công cụ.
Hạt có dược tính, còn vỏ ở đảo Hải Nam dùng chữa sốt (Tripp, 1995).
Nó còn có tiềm năng sử dụng làm cây cảnh do các cây non chịu bóng và có hình dáng đẹp trong khi các cây trưởng thành có kiểu vỏ độc đáo. Chữa bệnh đường hô hấp (Vỏ, lá). Ho, suyễn (Hạt).
Đỉnh tùng cần được đưa vào Nhóm IIA của Danh mục các loài động vật, thực vật quí hiếm để hạn chế khai thác và sử dụng, nhờ đó tạo điều kiện cho việc bảo vệ loài bên ngoài các khu bảo tồn, chủ yếu là trong các rừng phòng hộ. Việc phân bố rộng của loài cho phép thiết lập các khu bảo tồn chuyển vị gồm tất cả các xuất xứ sử dụng giống từ hạt hoặc cây hom.
Những quần thể tốt như ở Núi Voi, Đức Trọng, Lâm Đồng và khu BTTN Pù Huống cần được xác định và bảo vệ như những nguồn giống quốc gia.