Cây gỗ nhỡ, chiều cao trung bình 6-10m, thân và cành thẳng, thân to, nhẵn, khi non có màu lục nhạt, sau chuyển nâu xám.
Lá mọc so le, có mùi thơm, phiến nguyên, dày, cứng giòn, nhẵn bóng, dài 8-12cm, rộng 3-4cm, hình mác hoặc hình trứng thuôn, hơi nhọn đầu, mặt trên xanh bóng hơn mặt dưới.
Hoa lưỡng tính mọc đơn độc ở nách lá, có khi xếp 2-3 cái; cuống to, ngắn; 5 lá đài màu trắng có mép màu hồng; 5-6 cánh hoa đều nhau màu hồng thẫm; bao phấn 1–1,5 mm, hạt phấn có ba màu.
Quả kép gồm 6-8 đại hoặc hơn, xếp thành hình sao đường kính 2,5-3cm, khi non màu xanh lục sau chuyển nâu sẫm, mỗi đại dài 10-15mm, có mũi nhọn ngắn ở đầu. Lá noãn dài 10mm, hình thuyền, cứng nhăn nheo, chứa một hạt.
Hạt hình trứng, nhẵn bóng.
Phân bố:
Trong nước: Quảng Ninh (Bình Liêu), Bắc Kạn (Na Rì), Lạng Sơn (Cao Lộc, Văn Lãng, Văn Quan, Bình Gia), Cao Bằng (Đông Khê, Thất Khê), Quảng Ninh, Phú Thọ, Hà Giang, Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng).
Nước ngoài: Trung Quốc, Pakistan, Jamaica, Philippin và các nước châu Á
Tình trạng bảo tồn:
Giá trị, công dụng:
Đại hồi có tác dụng trừ đàm, khai vị, kiện tỳ, tiêu thực, giảm co bóp trong dạ dày và ruột, lợi sữa, trừ phong, giảm đau, sát trùng, trị nôn mửa, tiêu chảy, trướng bụng, đau ruột sán khí; tiểu nhiều, đái dầm, ngộ độc thịt cá; tay chân nhức mỏi; rắn cắn.
Tinh dầu Hồi có tác dụng kích thích, làm dễ tiêu, chống co giật, ức chế sự lên men ruột, gây trung tiện, long đờm, lợi tiểu nhẹ, trị đau bụng, dùng chữa ho, thấp khớp, đau tai, sát khuẩn, trị nấm da và ghẻ.
Biện pháp bảo vệ: