Tên khác:
Tên khoa học: Ardisia virens Kurz.
Tên đồng danh: Ardisia flaviflora C. Chen & D. Fang;
A. maculosa Mez;
A. maculosa var. symplocifolia C. Chen;
A. oldhamii Mez;
A. patens Mez;
A. radians Hemsley & Mez;
A. rectangularis Hayata;
A. stellifera Pitard;
A. tonkinensis Aug. de Candolle;
A. virens var. annamensis Pitard;
Bladhia oldhamii (Mez) Masamune;
B. radians (Hemsley & Mez) Masamune;
Tinus virens (Kurz) Kuntze.
Họ: Đơn nem - Myrsinaceae
Bộ: Đỗ quyên – Ericales
Lớp: Hai lá mầm - Magnoliopsida
Ngành: Hạt kín - Magnoliophyta
Đặc điểm nhận dạng:
Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 1-3 m. Cành non, đường kính 1-2 mm, có lông tuyến thưa thớt, đầu nhẵn bóng.
Cuống lá hình ống, 1(-1,5) cm; phiến lá hình elip, hình mác hoặc hình trứng ngược, 9-26 × 2,5-5(-7) cm, mỏng như giấy, xỉn màu, nhẵn hoặc đôi khi có lông tuyến, có các nốt sần có mạch, có chấm đen dày đặc, đỉnh nhọn đến gần nhọn; gân bên 15-30 ở mỗi bên gân giữa, gân rìa rõ.
Cụm hoa tán kép ở đầu cành, nhẵn, trên các nhánh bên chuyên biệt (15-)30-50 cm. Hoa mỏng như giấy, màu trắng hoặc hồng, 7-8 mm. Cuống hoa 1,5-3 cm, có nhú tuyến thưa thớt ở nụ, đầu nhẵn bóng.
Lá đài hình trứng đến hình elip, gần tròn, 2,5-3,5 mm, cùng với các cánh hoa có đốm đen dày đặc, không lông ở phía xa trục, hạt có tuyến thưa thớt ở phía trên trục. Cánh hoa gần như rời, hình trứng hoặc hình trứng rộng, đỉnh nhọn.
Nhị gần bằng cánh hoa; chỉ nhị ngắn hơn bao phấn; bao phấn hình mác hoặc gần trứng, nứt theo chiều dọc, có đốm ở mặt lưng, đỉnh nhọn.
Nhụy gần bằng cánh hoa; bầu nhụy có đốm, không lông; noãn khoảng 5, nhiều răng cưa.
Quả màu đỏ hoặc đỏ đen, hình cầu, đường kính 7-9(-10) mm, có đốm đen dày đặc.
Sinh học, sinh thái:
Cây mọc tự nhiên dưới tán rừng cây lá rộng thường xanh, sườn đồi, nơi ẩm ướt, thung lũng, đất giàu mùn ở độ cao 300-2700 m.
Mùa hoa tháng 3-8, quả chín tháng 9-12.
Phân bố:
Trong nước: Cây mọc ở các tỉnh Lao Cai, Hòa Bình, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Quảng Trị (VQG Phong Nha – Kẻ Bàng).
Nước ngoài: Trung Quốc (Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, Đài Loan, Vân Nam), Ấn Độ, Indonesia, Myanmar, Thái Lan.
Tình trạng bảo tồn:
Giá trị, công dụng:
Lá dùng chữa bệnh phổi. Rễ chữa phong thấp tê đau, gãy xương.
Biện pháp bảo vệ: